Tác giả: Efstratia Papanikou
Chiến tranh ở Ukraine đã dẫn đến sự thiếu hụt phốt phát trong thức ăn chăn nuôi
Với cuộc chiến tranh đang diễn ra ở Ukraine, ngành dinh dưỡng cho động vật ngày càng phải tiếp tục đối mặt với nhiều vấn đề, một trong số đó là sự khan hiếm phốt phát trong thức ăn chăn nuôi - chẳng hạn như mono phốt phát hoặc dicalcium phốt phát.
Enzyme phytase ngoại sinh thương mại là một giải pháp cục bộ cho vấn đề này vì nó có thể giải phóng một lượng phốt pho giới hạn liên kết trong phytate ở các loại hạt, phốt pho này nếu không được giải phóng thì sẽ được thải ra theo phân. Điểm cần chỉ ra ở đây là động vật dạ dày đơn như lợn và gia cầm không tạo ra phytase nội sinh, và do đó chúng không thể tận dụng tổng lượng phốt pho có trong thức ăn của chúng. Vì vậy, việc bổ sung phytase ngoại sinh có thể giúp giải phóng một số phốt pho không khả dụng này.
Trong số rất nhiều những câu hỏi liên quan đến việc lựa chọn loại phytase phù hợp, như việc lựa chọn giữa hai loại chính: cụ thể là loại 3- phytase hoặc
6-phytase. Tại đây, trước tiên chúng ta sẽ xem xét câu hỏi này từ quan điểm lý thuyết / hóa sinh học trước khi nhìn vào những dữ liệu thực tế hơn. Để làm được điều đó, chúng ta hãy bắt đầu bằng cách nhìn vào phân tử phytate như trong biểu đồ bên dưới:
Hình 1: Vị trí bắt đầu giải phóng P của 3-phytase và 6-phytase
Chúng ta thấy rằng một phân tử phytate chứa 6 đơn vị phốt pho, được đánh số từ 1 đến 6. Nói một cách đơn giản, loại 3-phytase bắt đầu quá trình giải phóng phốt pho ở vị trí đánh số 3 trên vòng inositol. Ngược lại, loại 6-phytase sẽ bắt đầu quá trình tương tự ở vị trí số 6 (hoặc phốt pho cuối). Cả hai loại phytase đều thủy phân phytate theo cách thức từng bước cho đến khi không còn vị trí nào khả dụng để tiếp tục cắt bỏ phốt pho. Vì vậy, về lý thuyết, loại 3-phytase không thể giải phóng hết phốt pho phytate (khi vị trí số 3 không còn nữa). Ngược lại, loại 6-phytase sẽ giải phóng hết phốt pho phytate. Do đó, về mặt hóa sinh học, loại
6-phytase có thể được coi là hiệu quả hơn loại 3-phytase trong việc giải phóng phốt pho cho động vật.
Không quá rõ ràng khi so sánh kết quả của hai loại phytase này dưới các điều kiện thương mại. Trên thực tế, sự phân biệt này hiếm khi được sử dụng trong tiếp thị và ít người nhận ra được tầm quan trọng của nó. Có lẽ điều này là do phytase luôn được áp dụng trong khẩu phần chứa đủ phốt pho vô cơ và / hoặc là vì các nhà cung cấp bổ sung thêm phytase ở một liều lượng duy nhất để khắc phục bất kỳ tình trạng kém hiệu quả nào. Sẽ rất thú vị khi xem các sản phẩm khác biệt như vậy hoạt động như thế nào dưới các điều kiện biên của việc bổ sung phốt pho hoặc thậm chí trong khẩu phần ăn mà không chứa bổ sung bất kỳ phốt pho nào. Ví dụ, trong một khẩu phần không bổ sung bất kì loại photphat nào, liệu loại 6-phytase có hoạt động tốt hơn loại 3-phytase hay không, tất cả các biến số khác đều bằng nhau hay không? Một khẩu phần như vậy chắc chắn sẽ thiếu phốt pho, đặc biệt là đối với những động vật có nhu cầu cao.
Cũng sẽ rất thú vị khi xem hai sản phẩm này hoạt động như thế nào ở mức dùng liều lượng cao (gấp 10 lần liều lượng bình thường), một lần nữa trong công thức không chứa phốt phát bổ sung cho động vật có nhu cầu cao. Cho đến nay, chúng tôi đã thấy rằng một trong hai sản phẩm hoạt động như mong đợi trong tất cả các loại thức ăn cho động vật có nhu cầu phốt pho thấp.
Hình 2: EcoPhytase SHS - Một loại enzyme 6-phytase chịu nhiệt
Nguồn: feedstrategy.com
Biên dịch: Ecovet Team